Một phân tích từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cho thấy mức Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người mà người dân Hàn Quốc cảm nhận trong cuộc sống thực tế thấp hơn Đài Loan khoảng 20.000 USD mỗi năm. Phân tích này cho biết, trong bối cảnh GDP bình quân đầu người danh nghĩa của Hàn Quốc dự kiến sẽ bị Đài Loan vượt qua lần đầu tiên sau 22 năm trong năm nay, thì GDP bình quân đầu người theo sức mua (PPP) đã bị Đài Loan bỏ xa từ lâu.

[Ảnh=Yonhap News]
Theo Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc (BoK) vào ngày 21, IMF đã công bố Báo cáo "Triển vọng Kinh tế Thế giới" (World Economic Outlook) vào ngày 15, dự báo GDP bình quân đầu người theo Sức mua tương đương (PPP - Purchasing Power Parity) của Hàn Quốc sẽ đạt 65.080 USD trong năm 2025. Mức này được dự kiến tăng 3,5% so với năm trước đó (62.885 USD).
GDP bình quân đầu người theo sức mua tương đương (GDP PPP) được IMF ước tính 2 lần mỗi năm, dùng để chỉ GDP bình quân đầu người phản ánh sức mua thực tế của tiền tệ nhằm so sánh mức sống giữa các quốc gia. Đây là chỉ số dựa trên sức mua thực tế có thể mua cùng một loại hàng hóa hoặc dịch vụ, và khi mức giá chung thấp thì chỉ số này sẽ được đánh giá tương đối cao.
GDP PPP của Hàn Quốc đã tăng lên: 2.200 USD vào năm 1980, 7.741 USD vào năm 1990, 17.432 USD vào năm 2000, 32.202 USD vào năm 2010 và 47.881 USD vào năm 2020. Con số của năm nay dự kiến xếp thứ 35 trên thế giới.
Điều đáng chú ý là trong cùng một báo cáo, IMF đã dự báo GDP PPP của Đài Loan sẽ đạt 85.127 USD trong năm nay, cao hơn Hàn Quốc 20.047 USD. Trong khi GDP bình quân đầu người danh nghĩa của Đài Loan được dự đoán sẽ vượt Hàn Quốc (35.962 USD) lần đầu tiên kể từ năm 2003, đạt 37.827 USD, thì theo tiêu chuẩn PPP, Đài Loan đã vượt qua Hàn Quốc tương đối xa.
GDP PPP của Đài Loan luôn cao hơn Hàn Quốc, đạt 3.214 USD vào năm 1980, 9.534 USD vào năm 1990, 20.463 USD vào năm 2000, 36.619 USD vào năm 2010 và 57.996 USD vào năm 2020. Xếp hạng quốc tế năm nay của Đài Loan cũng là vị trí thứ 12, cao hơn Hàn Quốc 23 bậc.
Lý do mức sống thực tế của người dân Đài Loan được đánh giá cao như vậy được phân tích là do lạm phát ở đây duy trì trạng thái tương đối ổn định.
Theo Trung tâm Tài chính Quốc tế (International Finance Center), dự báo lạm phát giá tiêu dùng trung bình năm nay của Đài Loan do 8 ngân hàng đầu tư (IB) lớn ở nước ngoài đưa ra chỉ đạt 1,7% vào cuối tháng 9. Điều này không chỉ thấp hơn đáng kể so với dự báo tăng trưởng GDP thực tế (5,3%), mà còn được dự đoán là sẽ ổn định hơn nhiều so với tỷ lệ lạm phát năm ngoái (2,18%). Tỷ lệ lạm phát giá tiêu dùng mà các IB dự báo cho năm sau cũng được dự kiến duy trì ở mức trung bình 1,5%, thấp hơn 0,5% so với mục tiêu lạm phát thông thường (2,0%).
Đây là một sự khác biệt so với Hàn Quốc, nơi tỷ lệ lạm phát giá tiêu dùng duy trì ở mức cao hơn Đài Loan, gần đây là khoảng 2%. Chỉ tính riêng sau đại dịch COVID-19, tỷ lệ lạm phát giá tiêu dùng của Hàn Quốc lần lượt là 2,5% (2021), 5,1% (2022), 3,6% (2023), và 2,3% (2024), luôn cao hơn Đài Loan, quốc gia đã ghi nhận 1,97% (2021), 2,95% (2022), 2,49% (2023) và 2,18% (2024).
Trong dự báo kinh tế sửa đổi vào tháng 8, BoK đã nâng dự báo tỷ lệ lạm phát giá tiêu dùng năm nay từ 1,9% lên 2,0% và dự báo năm 2026 từ 1,8% lên 1,9%. Sau đó, tỷ lệ lạm phát giá tiêu dùng tháng 9 đã được ghi nhận là 2,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó thực phẩm chế biến tăng 4,2%, hải sản tăng 6,4% và thịt tăng 5,4%.
Liên quan đến vấn đề này, Tổng thống Lee Jae-myung đã đặt câu hỏi tại cuộc họp nội các ngày 30 tháng 9: "Tại sao giá lương thực lại tăng cao đến vậy?. Điều này xảy ra do có vấn đề với chức năng của chính phủ".
Đây là phản ứng sau khi Giám đốc Viện Nghiên cứu Kinh tế BoK, Lee Jae-won, báo cáo tại cuộc họp rằng sự gia tăng chi phí phân phối như nhân công và tiền thuê, năng suất nông nghiệp giảm và thiếu đa dạng trong nguồn cung nông sản là nguyên nhân khiến giá lương thực tăng.
Trước đó, trong một báo cáo vào tháng 12 năm ngoái, BoK cũng đã chẩn đoán rằng gánh nặng lên các hộ gia đình dễ bị tổn thương đang gia tăng do hiện tượng được gọi là 'cheapflation' (lạm phát giá thấp), trong đó giá các mặt hàng giá thấp tăng nhanh hơn giá các mặt hàng giá cao.
GDP bình quân đầu người theo sức mua tương đương (GDP PPP) được IMF ước tính 2 lần mỗi năm, dùng để chỉ GDP bình quân đầu người phản ánh sức mua thực tế của tiền tệ nhằm so sánh mức sống giữa các quốc gia. Đây là chỉ số dựa trên sức mua thực tế có thể mua cùng một loại hàng hóa hoặc dịch vụ, và khi mức giá chung thấp thì chỉ số này sẽ được đánh giá tương đối cao.
GDP PPP của Hàn Quốc đã tăng lên: 2.200 USD vào năm 1980, 7.741 USD vào năm 1990, 17.432 USD vào năm 2000, 32.202 USD vào năm 2010 và 47.881 USD vào năm 2020. Con số của năm nay dự kiến xếp thứ 35 trên thế giới.
Điều đáng chú ý là trong cùng một báo cáo, IMF đã dự báo GDP PPP của Đài Loan sẽ đạt 85.127 USD trong năm nay, cao hơn Hàn Quốc 20.047 USD. Trong khi GDP bình quân đầu người danh nghĩa của Đài Loan được dự đoán sẽ vượt Hàn Quốc (35.962 USD) lần đầu tiên kể từ năm 2003, đạt 37.827 USD, thì theo tiêu chuẩn PPP, Đài Loan đã vượt qua Hàn Quốc tương đối xa.
GDP PPP của Đài Loan luôn cao hơn Hàn Quốc, đạt 3.214 USD vào năm 1980, 9.534 USD vào năm 1990, 20.463 USD vào năm 2000, 36.619 USD vào năm 2010 và 57.996 USD vào năm 2020. Xếp hạng quốc tế năm nay của Đài Loan cũng là vị trí thứ 12, cao hơn Hàn Quốc 23 bậc.
Lý do mức sống thực tế của người dân Đài Loan được đánh giá cao như vậy được phân tích là do lạm phát ở đây duy trì trạng thái tương đối ổn định.
Theo Trung tâm Tài chính Quốc tế (International Finance Center), dự báo lạm phát giá tiêu dùng trung bình năm nay của Đài Loan do 8 ngân hàng đầu tư (IB) lớn ở nước ngoài đưa ra chỉ đạt 1,7% vào cuối tháng 9. Điều này không chỉ thấp hơn đáng kể so với dự báo tăng trưởng GDP thực tế (5,3%), mà còn được dự đoán là sẽ ổn định hơn nhiều so với tỷ lệ lạm phát năm ngoái (2,18%). Tỷ lệ lạm phát giá tiêu dùng mà các IB dự báo cho năm sau cũng được dự kiến duy trì ở mức trung bình 1,5%, thấp hơn 0,5% so với mục tiêu lạm phát thông thường (2,0%).
Đây là một sự khác biệt so với Hàn Quốc, nơi tỷ lệ lạm phát giá tiêu dùng duy trì ở mức cao hơn Đài Loan, gần đây là khoảng 2%. Chỉ tính riêng sau đại dịch COVID-19, tỷ lệ lạm phát giá tiêu dùng của Hàn Quốc lần lượt là 2,5% (2021), 5,1% (2022), 3,6% (2023), và 2,3% (2024), luôn cao hơn Đài Loan, quốc gia đã ghi nhận 1,97% (2021), 2,95% (2022), 2,49% (2023) và 2,18% (2024).
Trong dự báo kinh tế sửa đổi vào tháng 8, BoK đã nâng dự báo tỷ lệ lạm phát giá tiêu dùng năm nay từ 1,9% lên 2,0% và dự báo năm 2026 từ 1,8% lên 1,9%. Sau đó, tỷ lệ lạm phát giá tiêu dùng tháng 9 đã được ghi nhận là 2,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó thực phẩm chế biến tăng 4,2%, hải sản tăng 6,4% và thịt tăng 5,4%.
Liên quan đến vấn đề này, Tổng thống Lee Jae-myung đã đặt câu hỏi tại cuộc họp nội các ngày 30 tháng 9: "Tại sao giá lương thực lại tăng cao đến vậy?. Điều này xảy ra do có vấn đề với chức năng của chính phủ".
Đây là phản ứng sau khi Giám đốc Viện Nghiên cứu Kinh tế BoK, Lee Jae-won, báo cáo tại cuộc họp rằng sự gia tăng chi phí phân phối như nhân công và tiền thuê, năng suất nông nghiệp giảm và thiếu đa dạng trong nguồn cung nông sản là nguyên nhân khiến giá lương thực tăng.
Trước đó, trong một báo cáo vào tháng 12 năm ngoái, BoK cũng đã chẩn đoán rằng gánh nặng lên các hộ gia đình dễ bị tổn thương đang gia tăng do hiện tượng được gọi là 'cheapflation' (lạm phát giá thấp), trong đó giá các mặt hàng giá thấp tăng nhanh hơn giá các mặt hàng giá cao.