Mặc dù những nỗ lực nghiên cứu, phục dựng trang phục cổ và truyền thống Việt Nam (cổ phục Việt) đã có từ lâu, nhưng vài năm gần đây mới nở rộ mạnh mẽ thành một trào lưu thu hút nhiều người tham gia, nhất là giới trẻ. Từ chỗ chỉ xuất hiện trong bảo tàng, sách và tư liệu lịch sử hay phim tài liệu..., đến nay, cổ phục Việt đã và đang được sử dụng trong rất nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật, giải trí, thậm chí trở thành một trong những xu hướng nổi bật của thời trang trong nước năm 2020, và được dự báo sẽ tiếp tục lan tỏa trong năm 2021.
Khi nhắc đến trang phục truyền thống nước ta, nhiều bạn chỉ nghĩ đến áo dài và biết mỗi áo dài. Tuy nhiên, cổ phục Việt không chỉ có vậy mà cả một kho tàng với nhiều loại trang phục khác. Trải qua mỗi triều đại phong kiến trong lịch sử chúng ta đều có những bộ trang phục mang đậm bản sắc văn hóa của dân tộc từng thời kỳ. Nổi bật trong số đó là cổ phục thời nhà Nguyễn: áo Nhật Bình và áo Tấc.
▶ Áo Nhật Bình là trang phục của Hoàng tộc, là thường phục của Hoàng Hậu, Phi tần và Công chúa. Áo Nhật Bình là kiểu áo đối khâm, có cổ hình chữ nhật to bản chạy dọc từ cổ đến ngực. Hai vạt áo sẽ được dùng dây buộc lại. Cổ phục này có tên là “Nhật Bình” bởi hoa văn ở cổ áo khi ghép lại tạo thành một hình chữ nhật ngay trước ngực. Sau thời nhà Nguyễn, bộ áo này trở thành trang phục giới quý tộc mặc vào những dịp quan trọng.
▶ Áo Tấc là loại lễ phục trang trọng thời Nguyễn thường được sử dụng trong các dịp trọng đại như kết hôn, lễ tết, tang lễ… Đây là loại trang phục phổ biến từ dân thường cho đến quan lại, vua chúa đều mặc vào thời Nguyễn. Loại áo này thường gồm một áo ngũ thân dài quá đầu gối với tay thụng dài bằng gấu (vì vậy còn được gọi là áo lễ hay áo ngũ thân), cài khuy bên phải, áo lót bên trong màu trắng. Mặc cùng với quần dài trắng và khăn vấn.
Ngoài ra còn có rất nhiều những bộ cổ phục khác.
▶ Áo đối khâm (thời nhà Lý – Trần): Đây là cổ phục có hai vạt áo song song với nhau, được xẻ tà hai bên và thường dài đến chân váy của người mặc. Người ta sẽ mặc buông thõng hoặc dùng để làm áo khoác bên ngoài, do đó chúng ta có thể nhìn thấy được những lớp áo từ bên trong.
▶ Áo giao lĩnh (thời Lý – Trần – Lê): Loại áo này có phần cổ giao nhau ở trước ngực, vạt trái đè lên vạt phải, tay áo chủ yếu là loại tay thụng và tay hẹp. Áo giao lĩnh có nhiều nét khá giống với trang phục cổ truyền của Trung Quốc hay Nhật Bản. Tuy nhiên, điểm khác biệt rõ nhất là hai vạt váy trong và ngoài không bằng nhau. Đây cũng chính là một trong những bản sắc của cổ phục Việt Nam.
▶ Áo ngũ thân (thời nhà Nguyễn sau năm 1744): Loại áo này khá đơn giản với 4 vạt chính và 1 vạt phụ, có cổ đứng, cài khuy bên phải, tay áo hẹp kết hợp với áo lót trắng bên trong và quần dài. Áo ngũ thân có màu sắc nhã nhặn, không có diềm cổ hay diềm tay áo.
▶ Áo tứ thân (đầu thế kỷ 20): Đây là loại trang phục hàng ngày của người dân Việt Nam xưa. Áo tứ thân gồm hai vạt, bốn tà, dài từ cổ buông xuống dưới đầu gối chừng 20 cm. Áo có hai vạt trước và sau. Vạt trước tách thành 2 tà theo chiều dài. Vạt sau cũng tách làm 2 tà nhưng được khâu vào với nhau hình thành một đường dài gọi là sống áo. Áo này không có khuy, dài và có hai tay áo để xỏ vào khi mặc. Bên trong, con gái mặc yếm, rồi đến chiếc áo cánh mỏng màu trắng tinh và cuối cùng mới là chiếc áo tứ thân khoác bên ngoài.
Trong năm 2020, nhất là vào dịp Tết Nguyên đán Tân Sửu 2021 vừa qua, trên mạng xã hội và các phương tiện truyền thông, xuất hiện nhiều hình ảnh các nghệ sĩ, các nhóm học sinh - sinh viên, hoặc các đôi vợ chồng trẻ mặc cổ phục Việt (áo ngũ thân, nhật bình, giao lĩnh…) trong các sự kiện giải trí, biểu diễn nghệ thuật, hoặc các hoạt động vui chơi, du lịch, cưới hỏi… Có thể nói rằng, việc giới trẻ yêu thích và sử dụng cổ phục Việt là một tín hiệu đáng mừng sau thời gian dài nét văn hóa này bị lu mờ, hoặc bị đánh đồng với trang phục cổ của một số quốc gia châu Á khác.
Trang phục là một phần quan trọng của mỹ thuật truyền thống, song cũng là lĩnh vực rất khó nghiên cứu, phục dựng bởi các tư liệu lịch sử ít nhắc đến, hình ảnh lưu trữ không nhiều. Hàng chục năm về trước, đã có những công trình nghiên cứu của GS, TS Ðoàn Thị Tình (nghiên cứu về phục trang người Việt), nhà nghiên cứu Trịnh Bách (phục dựng trang phục cung đình), nhà nghiên cứu Trịnh Quang Vũ (nghiên cứu trang phục các triều đại phong kiến Việt Nam)… nhưng mới chỉ có giới học thuật, chuyên gia tiếp cận, quan tâm. Rồi từ khoảng năm 2014 đến nay, các cộng đồng trên mạng in-tơ-nét về phong tục, trang phục, văn hóa Việt lần lượt ra đời và thu hút rất đông thành viên, phần lớn là người trẻ. Từ những diễn đàn như Ðại Việt cổ phong, Ðình làng Việt... rất nhiều dự án phục dựng cổ phục Việt được hình thành và cho kết quả khả quan, tạo nên phong trào tìm hiểu và ứng dụng cổ phục sôi nổi trong giới trẻ.
Giữa tháng 1-2021, Ðoàn TNCS Hồ Chí Minh Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn (ÐH Quốc gia TP Hồ Chí Minh) tổ chức tuần lễ văn hóa mang tên "Sóng đôi" với điểm nhấn là ngày hội "Tóc xanh - Vạt áo", có sự tham gia của 12 nhóm cổ phong (văn hóa xưa, phong cách cổ) khắp cả nước, trưng bày và trình diễn các loại trang phục truyền thống qua nhiều thời kỳ lịch sử như: áo dài, áo ngũ thân, tứ thân, viên lĩnh, giao lĩnh, nhật bình, đối khâm… với nhiều loại phụ kiện như mũ, giày, quạt mang mầu sắc và họa tiết lộng lẫy, bắt mắt. Hàng nghìn lượt khách tham quan đã có dịp tìm hiểu về cổ phục Việt Nam, trải nghiệm mặc thử cổ phục, chiêm ngưỡng các màn tái hiện nghi lễ cung đình. Ðây không phải sự kiện đầu tiên của phong trào tìm hiểu, ứng dụng cổ phục nhưng đã đánh dấu một cột mốc quan trọng của phong trào này, không chỉ là tự phát trong các diễn đàn, hội nhóm trên mạng xã hội nữa, mà đã dần nhận được sự quan tâm, ủng hộ và tổ chức bài bản của các tổ chức, đơn vị giáo dục. Theo TS Lê Thị Ngọc Ðiệp, Chủ tịch Hội đồng trường, hy vọng sự kiện sẽ lan tỏa những di sản tốt đẹp của Việt Nam tới các bạn trẻ, lực lượng giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa tới mai sau.
Cũng đầu năm 2021, Vietnam Centre - tổ chức văn hóa, giáo dục phi lợi nhuận của cộng đồng người Việt tại Ô-xtrây-li-a, công bố bản ghi hình mang tên "Người Việt xa lạ - 1000 năm Việt phục" lên YouTube và nhận được hơn 240 nghìn lượt xem. Trong ba phút, những bộ trang phục truyền thống của người Việt từ thời nhà Lý (thế kỷ 11) đến nhà Nguyễn (cuối thế kỷ 20) lần lượt được tái hiện, khiến người xem ngạc nhiên và thích thú trước những tạo hình vừa quen vừa lạ. Ê-kíp sản xuất cũng đăng tải lên trang Facebook chính thức hình ảnh từng bộ trang phục kèm theo diễn giải và căn cứ lịch sử, bằng cả ngôn ngữ tiếng Việt và tiếng Anh.
Ngoài ra, cổ phục còn đóng vai trò quan trọng trong hàng loạt dự án tìm hiểu, ứng dụng cổ phục đã và đang được thực hiện, góp phần xây dựng một cộng đồng quan tâm đến văn hóa truyền thống ngày càng phát triển. Chẳng hạn như: chuỗi sự kiện "Di sản kể chuyện"; phim dã sử diễn họa Bình Ngô đại chiến; sách Dệt nên triều đại; truyện tranh Long thần tướng (đã được mua bản quyền và phát hành bản tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha) và dự án khôi phục hoa văn cổ "Hoa văn Ðại Việt".
Trong lĩnh vực nghệ thuật và giải trí, cổ phục được chú ý khi liên tục xuất hiện trong các dự án phim đề tài cổ trang, các MV ca nhạc của ca sĩ trẻ được yêu thích… Bằng tâm huyết và sự nhanh nhạy, cộng đồng đam mê nghiên cứu và tôn vinh cổ phục đã sáng tạo nhiều hình thức khơi dậy sự hứng thú, để không chỉ công chúng trong nước mà cả bạn bè quốc tế biết và hiểu hơn về trang phục truyền thống của người Việt.
Giáo sư sử học Lê Văn Lan đã nhận định: "Những ý kiến phàn nàn việc giới trẻ quay lưng với văn hóa dân tộc, chỉ chăm chú vào lịch sử nước ngoài đã trở nên lỗi thời. Người trẻ học sử theo cách của họ. Nhiều công trình nghiên cứu, tìm tòi, ứng dụng của lớp trẻ hiện nay rất nghiêm túc và hiệu quả, nhưng vẫn mang đến sự mới mẻ, hào hứng, chứ không bị khô khan".
Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa cho rằng muốn gìn giữ, phát huy văn hóa truyền thống thì con đường dài lâu, bền vững nhất là "bảo tồn động", nghĩa là tìm ra phần nào còn hữu ích, giá trị trong đời sống hôm nay và tiếp tục gia tăng giá trị ấy, chứ không phải chỉ cần đưa vào bảo tàng, khu di tích... Tuy vẫn còn những tranh luận trong việc giữ nguyên bản để tôn trọng lịch sử hay cách tân để bảo đảm tính ứng dụng, tính thẩm mỹ thời đại, thì cổ phục Việt vẫn còn nhiều cơ hội để "hồi sinh". Và trong hành trình đó, vai trò của người trẻ đang tích cực và rõ ràng hơn bao giờ hết, khiến một di sản văn hóa trở nên gần gũi, "sống" được giữa cộng đồng.