Đời sống Xã hội

Tầng lớp "nghỉ ngơi" tại Hàn Quốc tăng mạnh 73.000 người chỉ trong một năm

Hoàng Phương Ly (lyhoang215@ajunews.com)17:23 05-11-2025
Số liệu thống kê cho thấy tầng lớp 'nghỉ ngơi' (những người không tham gia tìm kiếm việc làm mà cũng không có lý do chính đáng như học tập hay việc gia đình) tại Hàn Quốc đã tăng hơn 70.000 người trong vòng một năm.

Cụ thể, cứ 10 người trẻ (15~29 tuổi) được phân loại là 'nghỉ ngơi' thì có 3 người trả lời rằng họ phải "nghỉ ngơi bất đắc dĩ" do không tìm được công việc mong muốn. Trong khi đó, số lượng người tự kinh doanh mới chỉ đạt 331.000 người, mức thấp nhất kể từ khi thống kê bắt đầu.

 
ẢnhYonhap News
[Ảnh=Yonhap News]
Cục Dữ liệu Quốc gia Hàn Quốc đã công bố kết quả của 'Khảo sát bổ sung về Dân số không hoạt động kinh tế và Người lao động phi hưởng lương trong Điều tra Dân số hoạt động kinh tế' vào ngày 5 tháng 11, trong đó cho thấy tính đến tháng 8/2025, số lượng dân số không hoạt động kinh tế là 16,22 triệu người, tăng 9.000 người so với một năm trước.

Dân số không hoạt động kinh tế là nhóm người từ 15 tuổi trở lên, không có việc làm và cũng không tham gia tìm kiếm việc làm. Tỷ trọng dân số không hoạt động kinh tế trong tổng dân số từ 15 tuổi trở lên là 35,4%, giảm 0,2 điểm phần trăm (%p). Tỷ trọng này là mức thấp nhất kể từ khi cuộc khảo sát bắt đầu vào tháng 8 năm 1999.

Xét theo nhóm tuổi, tỷ trọng cao nhất là nhóm trên 70 tuổi (28,1%), tiếp theo là nhóm 60~69 tuổi (18,7%), và 15~19 tuổi (12,9%). Xét theo trạng thái hoạt động, tỷ trọng lớn nhất là 'công việc nhà' (36,9%), 'học tập/tham gia khóa học, v.v.' (20,2%), và 'nghỉ ngơi' (16,3%).

Trong số này, số lượng dân số 'nghỉ ngơi' là 2,641 triệu người, tăng 73.000 người so với một năm trước. Mức tăng tập trung ở nam giới (tăng 79.000 người, đạt 2,105 triệu người), trong khi ở nữ giới giảm 6.000 người (còn 536.000 người).

Số lượng người 'nghỉ ngơi' đã liên tục tăng từ 2,239 triệu người vào năm 2022 lên 2,322 triệu người vào năm 2023 và 2,567 triệu người vào năm 2024.

Lý do 'nghỉ ngơi' khác nhau tùy theo nhóm tuổi. Đối với nhóm thanh niên (15~29 tuổi), câu trả lời phổ biến nhất là 'khó tìm được công việc mong muốn' (34,1%), tăng 3,3%p so với năm ngoái. Tỷ lệ trả lời 'không có việc làm/công việc' cũng chiếm 9,9%. Điều này được lý giải là do tình trạng 'lệch pha cung cầu việc làm' (miss-matching) ngày càng trầm trọng, khi thiếu việc làm cho giới trẻ hoặc thiếu nguồn cung việc làm mà họ mong muốn.

Trong khi đó, 38,5% người trên 60 tuổi trả lời 'do sức khỏe kém'. 'Nghỉ ngơi liên tục sau khi thôi việc (nghỉ hưu)' cũng chiếm 34,0%.

So với năm 2024, mức tăng lớn nhất về lý do 'nghỉ ngơi' là 'khó tìm được công việc mong muốn' đối với nhóm 15~29 tuổi và trên 60 tuổi (tăng lần lượt 3,3%p và 1,6%p), 'hoàn thành công việc, hết hạn hợp đồng lao động' đối với nhóm 30 tuổi (tăng 2,7%p), và 'không có việc làm/công việc' đối với nhóm 40 và 50 tuổi (tăng lần lượt 1,4%p và 5,0%p).

Số lượng dân số không hoạt động kinh tế bày tỏ hy vọng tìm được việc làm hoặc tự kinh doanh trong vòng một năm là 3,301 triệu người (20,4%), giảm 0,3%p so với một năm trước. Lý do hy vọng tìm việc/tự kinh doanh là để kiếm chi phí sinh hoạt/tiền tiêu vặt (75,3%), để tự phát triển/hoàn thiện bản thân (17,1%), và để sử dụng kiến thức hoặc kỹ năng (4,0%).

Hình thức việc làm mong muốn là lao động hưởng lương (93,9%) và lao động phi hưởng lương (6,2%). Chi tiết là toàn thời gian (67,0%), bán thời gian (26,9%), tự kinh doanh (5,9%), và lao động gia đình không lương (0,3%).

Những yếu tố chính mà người tìm việc cân nhắc lần lượt là điều kiện làm việc (31,0%), mức thu nhập/tiền lương (27,5%), và sở trường/chuyên môn (23,8%).

Mức lương trung bình hàng tháng mong muốn là dưới 2 triệu đến dưới 3 triệu Won (43,6%), trên 3 triệu Won (27,6%), và 1 triệu đến dưới 2 triệu Won (21,7%).

Các yếu tố chính mà người có ý định tự kinh doanh cân nhắc là thu nhập/lợi nhuận (47,2%), sở trường/chuyên môn (28,2%), và quy mô vốn/khả năng tăng trưởng (14,8%).

Tính đến tháng 8/2025, số lượng lao động phi hưởng lương, bao gồm người tự kinh doanh và lao động gia đình không lương, là 6,554 triệu người, giảm 103.000 người so với một năm trước. Tỷ trọng lao động phi hưởng lương trong tổng số người có việc làm là 22,6%, giảm 0,5%p. Cả quy mô và tỷ trọng của lao động phi hưởng lương đều là mức thấp nhất kể từ khi cuộc khảo sát liên quan bắt đầu vào tháng 8/2007. Mức giảm là lớn nhất kể từ tháng 8/2020 (161.000 người) trong thời kỳ COVID-19.

Số lượng người tự kinh doanh có thuê nhân viên là 1,435 triệu người, giảm 5.000 người. Người tự kinh doanh không thuê nhân viên cũng giảm 65.000 người, còn 4,241 triệu người.

Xét theo ngành, số lượng người lao động phi hưởng lương nhiều nhất là ngành nông lâm ngư nghiệp (1,367 triệu người, 20,9%), bán buôn và bán lẻ (1,093 triệu người, 16,7%), và dịch vụ lưu trú/ăn uống (883.000 người, 13,5%). Mức giảm so với năm trước tập trung ở các lĩnh vực như nông lâm ngư nghiệp (-131.000 người) và vận tải/kho bãi (-41.000 người).

Ngược lại, số lượng lao động phi hưởng lương tăng trong các lĩnh vực dịch vụ lưu trú/ăn uống (32.000 người), dịch vụ giáo dục (31.000 người), và hiệp hội/tổ chức/dịch vụ cá nhân (31.000 người).

Quan chức Cục Dữ liệu Quốc gia nhận định: "Qua sự sụt giảm trong ngành nông lâm ngư nghiệp, có thể thấy những thay đổi cơ cấu trong ngành công nghiệp quốc gia đang ảnh hưởng đến sự sụt giảm của lao động phi hưởng lương."

Mặt khác, lao động phi hưởng lương duy trì công việc/doanh nghiệp trung bình trong 15 năm 5 tháng, tăng 1 tháng so với năm ngoái. Thời gian làm việc trung bình hàng tuần là 44,2 giờ, giảm 0,1 giờ so với một năm trước. Tỷ lệ trả lời sẽ duy trì công việc/doanh nghiệp hiện tại là 86,5%, giảm 0,1%p so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ có kế hoạch nghỉ việc là 5,3%, giảm 0,5%p. Kế hoạch mở rộng kinh doanh trong vòng 1 năm là 2,4%, tăng 0,2%p.

Lý do chính khiến người tự kinh doanh có kế hoạch nghỉ việc là 'không có triển vọng hoặc kinh doanh thua lỗ' (41,8%), 'lý do cá nhân' (41,3%), và 'chuyển sang lĩnh vực tốt hơn' (6,0%).

Số lượng người tự kinh doanh mới, khởi sự kinh doanh trong vòng 1 năm qua, là 331.000 người, mức thấp nhất kể từ khi thống kê bắt đầu.

Động cơ khởi nghiệp là 'muốn tự mình quản lý công việc kinh doanh' (73,8%) và 'khó tìm được việc làm hưởng lương' (17,9%).

Quy mô vốn khởi nghiệp ban đầu phổ biến nhất là dưới 5 triệu Won (31,9%), 5 triệu đến dưới 20 triệu Won (22,2%), và 20 triệu đến dưới 50 triệu Won (18,8%).

Phương thức huy động vốn là 'tiền tự chuẩn bị hoặc từ gia đình' (68,6%) và 'ngân hàng, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng tương hỗ, v.v.' (21,3%).

© Bản quyền thuộc về Thời báo Kinh tế AJU & www.ajunews.com: Việc sử dụng các nội dung đăng tải trên www.vietnam.ajunews.com phải có sự đồng ý bằng văn bản của Aju News Corporation.

기사 이미지 확대 보기
닫기