Quyền thường trú là quyền cho phép một cá nhân cư trú lâu dài tại một quốc gia mà không có quốc tịch của quốc gia đó. Người có tư cách thường trú nhân được phép sinh sống, làm việc, học tập và hưởng một số quyền lợi tương tự công dân của nước sở tại, nhưng không có đầy đủ quyền như bầu cử hoặc giữ hộ chiếu của quốc gia đó.

Một sự kiện dành cho người nhập cư kết hôn của gia đình đa văn hóa được tổ chức ở Cung điện Gyeongbok (Seoul) vào ngày 1 tháng 7 năm 2024. [Ảnh=Yonhap News]
Đối với Hàn Quốc, khi người nước ngoài có được quyền thường trú tại Hàn Quốc, người đó có thể tự do tham gia các hoạt động lao động, tham gia bảo hiểm xã hội. Thêm vào đó, sau 3 năm sở hữu quyền thường trú, người đó còn được cấp quyền bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử địa phương (trừ bầu cử tổng thống và tổng tuyển cử).
Chế độ thường trú được áp dụng tại Hàn Quốc bắt đầu từ năm 2002. Vào những ngày đầu mới áp dụng, đối tượng được hưởng chế độ thường trú chủ yếu là Hoa kiều sinh ra tại Hàn Quốc, nhưng dần dần mở rộng sang cả người nhập cư theo diện kết hôn, người lao động nước ngoài và nhà đầu tư nước ngoài.
Trong 20 năm qua, số lượng thường trú nhân Hàn Quốc đã tăng hơn 30 lần.
Theo số liệu thống kê về di trú của Bộ Tư pháp Hàn Quốc vào ngày 5, số lượng thường trú nhân năm 2024 tại Hàn Quốc là khoảng 202.000 người, gấp khoảng 34 lần so với con số khi hệ thống mới được triển khai vào năm 2002 (khoảng 6.000 người).
Xét theo khu vực, thường trú nhân có quốc tịch thuộc các quốc gia châu Á chiếm đa số với 96,6%. Tiếp theo là châu Âu với 1,6%, Bắc Mỹ với 1,3%, châu Đại Dương với 0,2%, châu Phi với 0,1% và Nam Mỹ với 0,06%.
Xét theo quốc gia, người Hàn Quốc gốc Hoa (Joseonjok) là nhóm có nhiều thường trú nhân nhất với 64% (134.004 người), tiếp theo là Trung Quốc với 18,5% (37.451 người), Đài Loan (Trung Quốc) với 5,1% (10.428 người), Nhật Bản với 3,4% (7.036 người), Uzbekistan với 1,5% (3.139 người), Việt Nam với 1,2% (2.548 người) và Mỹ với 0,9% (1.815 người).
Để có được quyền thường trú tại Hàn Quốc, người nước ngoài phải đáp ứng các yêu cầu về thu nhập, kiến thức và phẩm hạnh.
Yêu cầu về thu nhập khác nhau tùy theo loại thị thực, nhưng thu nhập hàng năm của người nộp đơn phải gấp 1 hoặc 2 lần tổng thu nhập quốc dân (GNI) bình quân đầu người do Ngân hàng Hàn Quốc công bố.
Ví dụ, yêu cầu về thu nhập để xin thị thực thường trú nhân (F5-1) được cấp cho những người đã cư trú tại Hàn Quốc hơn 5 năm là gấp đôi tổng thu nhập quốc dân (GNI).
Theo GNI bình quân đầu người năm 2023 do Ngân hàng Hàn Quốc công bố vào tháng 3 năm ngoái, GNI bình quân đầu người của Hàn Quốc năm 2023 là 36.914 đô la. Tính theo Won Hàn Quốc, số tiền này là 44.051.000 Won.
Theo đó, để có thể trở thành thường trú nhân, người nước ngoài cần có thu nhập hàng năm khoảng 90 triệu won (khoảng 1,6 tỷ VNĐ).
Tuy nhiên, đối với thường trú nhân di trú kết hôn (F5-2), yêu cầu về thu nhập được hạ thấp vì lý do nhân đạo.
Nếu người nước ngoài kết hôn với công dân Hàn Quốc, thì tổng thu nhập gia đình (vợ và chồng) của người đó ít nhất phải cao hơn GNI và nếu đáp ứng một số điều kiện nhất định, chẳng hạn như đang mang thai hoặc nuôi con nhỏ, thì quy định về thu nhập có thể được nới lỏng xuống còn chỉ cần bằng 80% GNI.
Tương tự như vậy, quyền thường trú (F5-6) được cấp cho người Hàn Quốc ở nước ngoài, bao gồm cả người Hàn gốc Hoa, yêu cầu tổng thu nhập của gia đình ít nhất phải cao hơn GNI. Dựa trên các tiêu chí trên, thu nhập hàng năm của nhóm đối tượng này sẽ rơi vào khoảng 45 triệu won (790 triệu VNĐ).
Yêu cầu về trình độ bao gồm khả năng tiếng Hàn và hiểu biết về luật pháp, văn hóa và lịch sử Hàn Quốc. Người đăng ký thường trú nhân phải chứng minh được rằng bản thân đáp ứng các yêu cầu về trình độ bằng cách hoàn thành Cấp độ 5 của Chương trình Giáo dục Hàn Quốc (KIIP) do Bộ Tư pháp điều hành hoặc đạt 60 điểm trở lên trong kỳ thi toàn diện để xin thường trú.
Yêu cầu thực hiện cuối cùng là xem xét hồ sơ tội phạm trong và ngoài nước để đánh giá liệu người nộp đơn có tuân thủ luật pháp hay không.
Tuy nhiên, tùy thuộc vào phương pháp xin thường trú, các yêu cầu này có thể được miễn hoặc nới lỏng. Các yêu cầu chi tiết sẽ khác nhau đối với những người có bằng tiến sĩ ở nước ngoài, có kỹ năng trong một lĩnh vực cụ thể hoặc có những đóng góp đặc biệt cho Hàn Quốc.
Ngoài ra, nếu người đang sở hữu quyền thường trú phạm tội khi đang lưu trú tại quốc gia sở tại hoặc có hành vi chống lại lợi ích quốc gia về an ninh quốc gia, quan hệ ngoại giao hoặc nền kinh tế quốc gia, tư cách thường trú nhân của sẽ bị thu hồi.
Quyền thường trú không chỉ đơn thuần là giấy phép cư trú mà còn được coi là một phương tiện thu hút đầu tư, kích thích nền kinh tế quốc gia.
Hàn Quốc cũng có hệ thống thường trú nhằm thu hút đầu tư. Tuy nhiên, khi những tác động phụ như giá bất động sản tăng, hủy hoại môi trường và xung đột giữa cư dân do phát triển quá mức được chỉ ra, thì chính phủ Hàn Quốc đang có xu hướng nâng dần tiêu chuẩn phát hành loại thường trú đầu tư này.
Chính phủ Hàn Quốc bắt đầu nghiêm túc tìm cách thu hút đầu tư thông qua chương trình thường trú vào năm 2010 khi triển khai ‘Hệ thống nhập cư đầu tư bất động sản’.
Vào thời điểm đó, người nước ngoài mua bất động sản có giá trị trên 500 triệu won tại Đảo Jeju và ở đó hơn 5 năm sẽ được cấp thẻ thường trú. Hiện nay, tiêu chuẩn đã được nâng lên 1 tỷ won và tên đã được đổi thành ‘Hệ thống nhập cư đầu tư cơ sở du lịch và nghỉ dưỡng’.
Hệ thống này đã mang lại nhiều kết quả thực tế, chẳng hạn như dòng vốn đầu tư tổng cộng 1.241 nghìn tỷ won trong 4 năm kể từ năm 2010. Theo đó, Khu kinh tế tự do Incheon, Gangwon Pyeongchang, Busan Haeundae và Yeosu Gyeongdo cũng đã áp dụng hệ thống này.
Theo thống kê, số lượng thường trú nhân có “đầu tư bất động sản” (F5-17) đã tăng hơn 11 lần từ 58 người vào năm 2017 lên 712 người tính đến tháng 9/2024.
Khi tỷ lệ sinh thấp và tình trạng già hóa dân số ngày càng trầm trọng, việc thu hút người nước ngoài trẻ, trung thực và có năng lực đã trở thành nhiệm vụ quan trọng của chính phủ Hàn Quốc.
Một dấu hiệu tích cực là số lượng người nước ngoài muốn định cư tại Hàn Quốc thay vì trở về quê hương sau khi kiếm được tiền đang ngày càng tăng.
Theo Bộ Tư pháp, số lượng người nước ngoài cư trú dài hạn đã tăng từ 1 triệu người vào năm 2010 lên 1,96 triệu người vào năm 2024 và thời gian lưu trú trung bình tăng từ 3,6 năm vào năm 2015 lên 6,3 năm vào năm ngoái.
Kwak Jae-seok, giám đốc Viện Phát triển Chính sách Di cư Hàn Quốc, cho biết: "Tỷ lệ sinh thấp và xã hội già hóa của Hàn Quốc đang gia tăng với tốc độ chưa từng có. Không giống như các quốc gia đã bước vào xã hội già hóa và đã thiết lập các chính sách chính trị và xã hội, (Hàn Quốc) khó có thể tìm ra giải pháp thay thế hợp lý trong 10 đến 20 năm nữa.
"Thực tế là có nhiều người nhập cư lâu dài có nghĩa là họ đã hòa nhập và có kỹ năng hơn trong xã hội Hàn Quốc. Chúng ta cần mở cửa đất nước để những người lao động giỏi hơn có thể đến đây", Giám đốc Kwak đưa ra đề xuất.
Tuy nhiên, một số ý kiến chỉ ra rằng cần phải thực hiện chính sách thường trú dựa trên sự giám sát chặt chẽ, vì xung đột có thể phát sinh giữa công dân trong nước và nước ngoài về vấn đề việc làm và ngân sách phúc lợi.
Choi Seo-ri, một nhà nghiên cứu tại Viện Chính sách Nhập cư Hàn Quốc, cho biết trong một báo cáo vào tháng 8 năm 2023 rằng "năng lực cạnh tranh của một quốc gia trong việc thu hút nhân tài chỉ có thể được đảm bảo khi quốc gia đó tạo ra môi trường để nhân tài có thể thể hiện khả năng của mình trong khi vẫn có cuộc sống thoải mái, cả về kinh tế và tinh thần. Chính sách thu hút nhân tài phải được thực hiện kết hợp với chính sách nhập cư và các chính sách kinh tế - xã hội nói chung".
Giáo sư Seol Dong-hoon thuộc Khoa Xã hội học của Đại học Quốc gia Jeonbuk cũng cho biết: "Chúng ta cần một cơ chế để tiếp nhận người nhập cư vào đúng địa điểm và với số lượng phù hợp với nhu cầu của thị trường".
Chế độ thường trú được áp dụng tại Hàn Quốc bắt đầu từ năm 2002. Vào những ngày đầu mới áp dụng, đối tượng được hưởng chế độ thường trú chủ yếu là Hoa kiều sinh ra tại Hàn Quốc, nhưng dần dần mở rộng sang cả người nhập cư theo diện kết hôn, người lao động nước ngoài và nhà đầu tư nước ngoài.
Trong 20 năm qua, số lượng thường trú nhân Hàn Quốc đã tăng hơn 30 lần.
Theo số liệu thống kê về di trú của Bộ Tư pháp Hàn Quốc vào ngày 5, số lượng thường trú nhân năm 2024 tại Hàn Quốc là khoảng 202.000 người, gấp khoảng 34 lần so với con số khi hệ thống mới được triển khai vào năm 2002 (khoảng 6.000 người).
Xét theo khu vực, thường trú nhân có quốc tịch thuộc các quốc gia châu Á chiếm đa số với 96,6%. Tiếp theo là châu Âu với 1,6%, Bắc Mỹ với 1,3%, châu Đại Dương với 0,2%, châu Phi với 0,1% và Nam Mỹ với 0,06%.
Xét theo quốc gia, người Hàn Quốc gốc Hoa (Joseonjok) là nhóm có nhiều thường trú nhân nhất với 64% (134.004 người), tiếp theo là Trung Quốc với 18,5% (37.451 người), Đài Loan (Trung Quốc) với 5,1% (10.428 người), Nhật Bản với 3,4% (7.036 người), Uzbekistan với 1,5% (3.139 người), Việt Nam với 1,2% (2.548 người) và Mỹ với 0,9% (1.815 người).
Để có được quyền thường trú tại Hàn Quốc, người nước ngoài phải đáp ứng các yêu cầu về thu nhập, kiến thức và phẩm hạnh.
Yêu cầu về thu nhập khác nhau tùy theo loại thị thực, nhưng thu nhập hàng năm của người nộp đơn phải gấp 1 hoặc 2 lần tổng thu nhập quốc dân (GNI) bình quân đầu người do Ngân hàng Hàn Quốc công bố.
Ví dụ, yêu cầu về thu nhập để xin thị thực thường trú nhân (F5-1) được cấp cho những người đã cư trú tại Hàn Quốc hơn 5 năm là gấp đôi tổng thu nhập quốc dân (GNI).
Theo GNI bình quân đầu người năm 2023 do Ngân hàng Hàn Quốc công bố vào tháng 3 năm ngoái, GNI bình quân đầu người của Hàn Quốc năm 2023 là 36.914 đô la. Tính theo Won Hàn Quốc, số tiền này là 44.051.000 Won.
Theo đó, để có thể trở thành thường trú nhân, người nước ngoài cần có thu nhập hàng năm khoảng 90 triệu won (khoảng 1,6 tỷ VNĐ).
Tuy nhiên, đối với thường trú nhân di trú kết hôn (F5-2), yêu cầu về thu nhập được hạ thấp vì lý do nhân đạo.
Nếu người nước ngoài kết hôn với công dân Hàn Quốc, thì tổng thu nhập gia đình (vợ và chồng) của người đó ít nhất phải cao hơn GNI và nếu đáp ứng một số điều kiện nhất định, chẳng hạn như đang mang thai hoặc nuôi con nhỏ, thì quy định về thu nhập có thể được nới lỏng xuống còn chỉ cần bằng 80% GNI.
Tương tự như vậy, quyền thường trú (F5-6) được cấp cho người Hàn Quốc ở nước ngoài, bao gồm cả người Hàn gốc Hoa, yêu cầu tổng thu nhập của gia đình ít nhất phải cao hơn GNI. Dựa trên các tiêu chí trên, thu nhập hàng năm của nhóm đối tượng này sẽ rơi vào khoảng 45 triệu won (790 triệu VNĐ).
Yêu cầu về trình độ bao gồm khả năng tiếng Hàn và hiểu biết về luật pháp, văn hóa và lịch sử Hàn Quốc. Người đăng ký thường trú nhân phải chứng minh được rằng bản thân đáp ứng các yêu cầu về trình độ bằng cách hoàn thành Cấp độ 5 của Chương trình Giáo dục Hàn Quốc (KIIP) do Bộ Tư pháp điều hành hoặc đạt 60 điểm trở lên trong kỳ thi toàn diện để xin thường trú.
Yêu cầu thực hiện cuối cùng là xem xét hồ sơ tội phạm trong và ngoài nước để đánh giá liệu người nộp đơn có tuân thủ luật pháp hay không.
Tuy nhiên, tùy thuộc vào phương pháp xin thường trú, các yêu cầu này có thể được miễn hoặc nới lỏng. Các yêu cầu chi tiết sẽ khác nhau đối với những người có bằng tiến sĩ ở nước ngoài, có kỹ năng trong một lĩnh vực cụ thể hoặc có những đóng góp đặc biệt cho Hàn Quốc.
Ngoài ra, nếu người đang sở hữu quyền thường trú phạm tội khi đang lưu trú tại quốc gia sở tại hoặc có hành vi chống lại lợi ích quốc gia về an ninh quốc gia, quan hệ ngoại giao hoặc nền kinh tế quốc gia, tư cách thường trú nhân của sẽ bị thu hồi.
Quyền thường trú không chỉ đơn thuần là giấy phép cư trú mà còn được coi là một phương tiện thu hút đầu tư, kích thích nền kinh tế quốc gia.
Hàn Quốc cũng có hệ thống thường trú nhằm thu hút đầu tư. Tuy nhiên, khi những tác động phụ như giá bất động sản tăng, hủy hoại môi trường và xung đột giữa cư dân do phát triển quá mức được chỉ ra, thì chính phủ Hàn Quốc đang có xu hướng nâng dần tiêu chuẩn phát hành loại thường trú đầu tư này.
Chính phủ Hàn Quốc bắt đầu nghiêm túc tìm cách thu hút đầu tư thông qua chương trình thường trú vào năm 2010 khi triển khai ‘Hệ thống nhập cư đầu tư bất động sản’.
Vào thời điểm đó, người nước ngoài mua bất động sản có giá trị trên 500 triệu won tại Đảo Jeju và ở đó hơn 5 năm sẽ được cấp thẻ thường trú. Hiện nay, tiêu chuẩn đã được nâng lên 1 tỷ won và tên đã được đổi thành ‘Hệ thống nhập cư đầu tư cơ sở du lịch và nghỉ dưỡng’.
Hệ thống này đã mang lại nhiều kết quả thực tế, chẳng hạn như dòng vốn đầu tư tổng cộng 1.241 nghìn tỷ won trong 4 năm kể từ năm 2010. Theo đó, Khu kinh tế tự do Incheon, Gangwon Pyeongchang, Busan Haeundae và Yeosu Gyeongdo cũng đã áp dụng hệ thống này.
Theo thống kê, số lượng thường trú nhân có “đầu tư bất động sản” (F5-17) đã tăng hơn 11 lần từ 58 người vào năm 2017 lên 712 người tính đến tháng 9/2024.
Khi tỷ lệ sinh thấp và tình trạng già hóa dân số ngày càng trầm trọng, việc thu hút người nước ngoài trẻ, trung thực và có năng lực đã trở thành nhiệm vụ quan trọng của chính phủ Hàn Quốc.
Một dấu hiệu tích cực là số lượng người nước ngoài muốn định cư tại Hàn Quốc thay vì trở về quê hương sau khi kiếm được tiền đang ngày càng tăng.
Theo Bộ Tư pháp, số lượng người nước ngoài cư trú dài hạn đã tăng từ 1 triệu người vào năm 2010 lên 1,96 triệu người vào năm 2024 và thời gian lưu trú trung bình tăng từ 3,6 năm vào năm 2015 lên 6,3 năm vào năm ngoái.
Kwak Jae-seok, giám đốc Viện Phát triển Chính sách Di cư Hàn Quốc, cho biết: "Tỷ lệ sinh thấp và xã hội già hóa của Hàn Quốc đang gia tăng với tốc độ chưa từng có. Không giống như các quốc gia đã bước vào xã hội già hóa và đã thiết lập các chính sách chính trị và xã hội, (Hàn Quốc) khó có thể tìm ra giải pháp thay thế hợp lý trong 10 đến 20 năm nữa.
"Thực tế là có nhiều người nhập cư lâu dài có nghĩa là họ đã hòa nhập và có kỹ năng hơn trong xã hội Hàn Quốc. Chúng ta cần mở cửa đất nước để những người lao động giỏi hơn có thể đến đây", Giám đốc Kwak đưa ra đề xuất.
Tuy nhiên, một số ý kiến chỉ ra rằng cần phải thực hiện chính sách thường trú dựa trên sự giám sát chặt chẽ, vì xung đột có thể phát sinh giữa công dân trong nước và nước ngoài về vấn đề việc làm và ngân sách phúc lợi.
Choi Seo-ri, một nhà nghiên cứu tại Viện Chính sách Nhập cư Hàn Quốc, cho biết trong một báo cáo vào tháng 8 năm 2023 rằng "năng lực cạnh tranh của một quốc gia trong việc thu hút nhân tài chỉ có thể được đảm bảo khi quốc gia đó tạo ra môi trường để nhân tài có thể thể hiện khả năng của mình trong khi vẫn có cuộc sống thoải mái, cả về kinh tế và tinh thần. Chính sách thu hút nhân tài phải được thực hiện kết hợp với chính sách nhập cư và các chính sách kinh tế - xã hội nói chung".
Giáo sư Seol Dong-hoon thuộc Khoa Xã hội học của Đại học Quốc gia Jeonbuk cũng cho biết: "Chúng ta cần một cơ chế để tiếp nhận người nhập cư vào đúng địa điểm và với số lượng phù hợp với nhu cầu của thị trường".